Để doanh nghiệp “làm bạn” với môi trường

​Lồng ghép công tác thi đua khen thưởng với bảo vệ môi trường để nâng cao ý thức trách nhiệm cho các cấp, các ngành, các tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân được xem là nhiệm vụ chung của toàn xã hội, tạo động lực quan trọng thúc đẩy công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Nguồn động viên kịp thời
Theo các chuyên gia môi trường để thu hút sự tham gia của các tổ chức, cơ quan, cộng đồng dân cư và cá nhân vào công tác bảo vệ môi trường cần phải đưa nội dung bảo vệ môi trường vào các phong trào thi đua, các hình thức khen thưởng hàng năm và đột xuất lồng ghép trong phong trào thi đua vào các văn bản luật, nghị định, thông tư hướng dẫn Luật Thi đua, Khen thưởng và Luật Bảo vệ môi trường. Có như vậy, mức độ tham gia bảo vệ môi trường sẽ lan tỏa rộng khắp và thường xuyên hơn trên phạm vi toàn quốc.
Từ nhiều năm nay, Giải thưởng Môi trường Việt Nam là giải thưởng chính thức duy nhất của Bộ TN&MT trao tặng cho các tổ chức, cá nhân và cộng đồng có thành tích xuất sắc trong sự nghiệp bảo vệ môi trường. Giải thưởng nhằm động viên, khuyến khích phong trào bảo vệ môi trường góp phần phát triển kinh tế xã hội bền vững, đồng thời tuyên truyền giới thiệu các gương điển hình tiên tiến về bảo vệ môi trường, lan tỏa phong trào thi đua yêu nước trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. Bộ TN&MT đánh giá cao sự đóng góp tích cực của các Bộ, ngành, các tổ chức chính trị – xã hội, các cơ quan truyền thông đại chúng và 63 tỉnh thành phố trong việc phối hợp, chỉ đạo và tổ chức nhiều hoạt động thiết thực, cụ thể, hiệu quả trong công tác BVMT, đã xuất hiện nhiều gương điển hình tiên tiến xuất sắc BVMT trong các lĩnh vực, các vùng miền khác nhau trên cả nước.
Tính riêng năm 2013, Bộ TN&MT đã ký quyết định công nhận 31 tổ chức, 1 cộng đồng và 18 cá nhân đạt Giải thưởng Môi trường Việt Nam. Sau hơn 10 năm thực hiện, Giải thưởng Môi trường đã đạt được những kết quả nổi bật, phản ánh sinh động và chân thực thành tích BVMT của các tập thể, cá nhân cũng như của các cộng đồng dân cư trên cả nước, góp phần quan trọng tạo lập và thúc đẩy mạnh mẽ phong trào thi đua BVMT tại Việt Nam. Tính đến nay, đã có gần 300 tổ chức cá nhân được tặng Giải thưởng Môi trường Việt Nam. Giải thưởng là nguồn động viên khuyến khích các cộng đồng dân cư hăng hái tham gia BVMT, tôn vinh các tổ chức, cá nhân có nhiều đóng góp giá trị vào sự nghiệp BVMT tại Việt Nam. Đáng lưu ý là số doanh nghiệp được tặng Giải thưởng chiếm tỷ lệ khá cao và có xu hướng ngày càng tăng, chiếm tỷ lệ gần 30% tổng số giải thưởng.
Thay đổi nhận thức doanh nghiệp
Trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay, việc thực hiện tốt trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp đặc biệt là bảo vệ môi trường sẽ giúp các doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh, thâm nhập vào các thị trường quốc tế và đảm bảo sự phát triển bền vững của doanh nghiệp. Tuy nhiên, việc thực hiện công tác bảo vệ môi trường tại các doanh nghiệp đang là vấn đề nan giải, gặp nhiều khó khăn và cần sự hỗ trợ và phối hợp của các cơ quan, ban, ngành.
Do vậy, để tồn tại và phát triển bền vững, các doanh nghiệp buộc phải quan tâm tới các khía cạnh môi trường, hiệu quả sinh thái và năng lượng của từng hoạt động sản xuất, kinh doanh. Muốn làm được vậy, các lãnh đạo doanh nghiệp cần thay đổi tư duy, nâng cao nhận thức của doanh nghiệp. Đồng thời xây dựng và chuyển đổi qua hệ thống quản lý với kế hoạch hành động xanh, tạo lập cơ sở vững chắc đảm bảo yếu tố môi trường, tính hiệu quả về sinh thái và sử dụng năng lượng, hạn chế phát thải nhà kính.
Theo đánh giá của Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam, vài năm trở lại đây, số dự án môi trường được gửi đề nghị xin vay tăng mạnh, số vốn giải ngân cũng tăng từ 60 – 150% cho các dự án tại hơn 30 tỉnh thành. Nhiều doanh nghiệp đã và đang nghiêm túc thực hiện bảo vệ môi trường và xem đầu tư bảo vệ môi trường là một kênh đầu tư, vừa mang lại lợi ích cho mình vừa mang lại lợi ích cho xã hội, đáp ứng những quy định ngày càng khắt khe của pháp luật về môi trường.
Nhiều doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài với lợi thế về vốn, khoa học công nghệ và kinh nghiệm quản lý, đã áp dụng các biện pháp xử lý chất thải trước khi thải ra môi trường như Công ty Ford Việt Nam với Cúp vàng Môi trường (2007) do Bộ TN&MT trao tặng, Công ty Khu công nghiệp Việt Nam – Singapo (VSIP) đạt giải Doanh nghiệp thân thiện với môi trường tại Giải thưởng Rồng vàng năm 2009
Một số doanh nghiệp trong nước đã chủ động áp dụng các giải pháp xử lý chất thải và đầu tư đổi mới công nghệ trong sản xuất như: Công ty cổ phần Nhiệt điện Phả Lại thành công trong đề tài tách dầu mazút ra khỏi nước thải để phục vụ cho sản xuất, Tập đoàn Công nghiệp Than và Khoáng sản Việt Nam với mục tiêu hướng tới “Mỏ sạch – an toàn – hiện đại”...
Theo tin môi trường, vea.gov.vn

Giờ Trái Đất 2014: Việt Nam tiết kiệm 431.000 KWh điện

Trong 60 phút tắt đèn và các thiết bị điện không cần thiết của chiến dịch Giờ Trái đất 2014 tối 29-3, Việt Nam tiết kiệm được sản lượng điện 431.000 KWh, tương đương khoảng 650 triệu đồng.

Theo thống kê từ Trung tâm điều độ Hệ thống điện Quốc gia thuộc Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), trong 60 phút tắt đèn và các thiết bị điện không cần thiết của chiến dịch Giờ Trái đất 2014, công suất hệ thống giảm được 431 MW, sản lượng điện tiết kiệm được của cả nước là 431.000 KWh, tương đương khoảng 650 triệu đồng.

Trong 60 phút tắt đèn của chiến dịch Giờ Trái đất 2013, cả nước đã tiết kiệm được 401 MW điện, tương ứng 576 triệu đồng. Năm tiết kiệm được nhiều điện năng nhất kể từ khi Việt Nam ưởng ứng Giờ Trái đất năm 2009 tới nay là năm 2012, tiết kiệm được 546.000 kWh, tương đương tiết kiệm 712 triệu đồng.

Hưởng ứng Giờ Trái đất tối 29-3 tại Nhà Hát lớn TP Hà Nội (Ảnh: Nguyễn Quyết/nld.com.vn)

Trong 60 phút tắt đèn của chiến dịch Giờ Trái đất 2014 từ 20 giờ 30 đến 21 giờ 30 tối 29-3, 63 tỉnh thành Việt Nam đã cùng cả thế giới tham gia chương trình Giờ trái đất năm nay với thông điệp “Hãy hành động để Trái đất thêm xanh”.

Đây là lần thứ 8 Chiến dịch này được tổ chức trên thế giới và thứ 6 tại Việt Nam. Chiến dịch được người dân 63 tỉnh, thành, nhất là các bạn trẻ, ủng hộ rộng rãi.

Tại Hà Nội, đúng 20 giờ 30 phút, nghi thức tắt đèn diễn ra, phố Tràng Tiền cùng tất cả đèn điện xung quanh hồ Hoàn Kiếm vụt tắt. Các địa danh nổi tiếng của Hà Nội như đền Ngọc Sơn, tháp Rùa, cầu Thê Húc, vườn hoa Lý Thái Tổ, Nhà hát Lớn, hồ Trúc Bạch… đồng loạt tắt đèn. Nhiều khu phố Hà Nội gần như chìm trong bóng tối.

Ở Quảng Nam, hàng ngàn người dân và du khách tập trung tại Quảng trường Sông Hòa và Vườn tượng An Hội của TP Hội An để thả hoa đăng và tham gia các hoạt động như xếp hình, sinh hoạt văn nghệ với chủ đề: Hãy hành động để Trái đất thêm xanh. Tất cả hàng quán, dịch vụ kinh doanh, du lịch tại TP Hội An đều tắt điện và thắp sáng bằng nến, đèn dầu.

Tại TP Đà Nẵng, tất cả biển quảng cáo lớn dọc hai bên bờ sông Hàn cùng các tuyến phố chính đều tắt điện. Nhà hàng, khách sạn… cũng tắt đèn panô và đèn chiếu sáng.

Nhiều công trình quan trọng tại TP HCM cũng đồng loạt tắt đèn.

Giờ Trái đất là chiến dịch toàn cầu do Quỹ Quốc tế Bảo vệ Thiên nhiên (WWF) phát động và khởi xướng nhằm nâng cao nhận thức của cộng đồng về sử dụng hiệu quả, tiết kiệm năng lượng, góp phần bảo vệ môi trường trước biến đổi khí hậu toàn cầu. Sáng kiến này kêu gọi các cá nhân và doanh nghiệp trên toàn thế giới tắt điện một giờ đồng hồ vào 20 giờ 30 – 21 giờ 30 ngày thứ 7 cuối cùng của tháng 3 hàng năm.

Chiến dịch được thực hiện đầu tiên vào năm 2007 tại thành phố Sydney (Úc) với sự tham gia hưởng ứng của 2,2 triệu người và tại Việt Nam từ năm 2009.

Theo P.Nhung – N.Quyết/nld.com.vn

Ưu đãi phát triển dự án điện sinh khối

Theo Quyết định 24/2014/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, nhà đầu tư được hưởng nhiều ưu đãi về vốn đầu tư, thuế, đất đai… khi đầu tư thực hiện các dự án điện sinh khối.
Ưu đãi về tín dụng đầu tư
Cụ thể, Nhà đầu tư được huy động vốn từ các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước để đầu tư thực hiện các dự án điện sinh khối theo quy định của pháp luật hiện hành.Các dự án điện sinh khối được hưởng các ưu đãi về tín dụng đầu tư theo các quy định pháp luật hiện hành về tín dụng đầu tư và tín dụng xuất khẩu của Nhà nước.
Miễn thuế nhập khẩu, thu nhập doanh nghiệp
Đồng thời, dự án điện sinh khối được miễn thuế nhập khẩu đối với hàng hóa nhập khẩu để tạo tài sản cố định cho dự án; hàng hóa nhập khẩu là nguyên liệu, vật tư, bán thành phẩm trong nước chưa sản xuất được nhập khẩu để phục vụ sản xuất của dự án theo quy định của pháp luật hiện hành về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.Việc miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp đối với dự án điện sinh khối được thực hiện như đối với dự án thuộc lĩnh vực ưu đãi đầu tư theo quy định của pháp luật hiện hành về thuế.

Ngoài ưu đãi về vốn đầu tư và thuế, các dự án điện sinh khối và công trình đường dây và trạm biến áp để đấu nối với lưới điện quốc gia được miễn, giảm tiền sử dụng đất, tiền thuê đất theo quy định của pháp luật hiện hành áp dụng đối với dự án thuộc lĩnh vực ưu đãi đầu tư.

Đầu tư dự án phải phù hợp Quy hoạch

Quyết định cũng nêu rõ, việc đầu tư xây dựng dự án điện sinh khối phải phù hợp với Quy hoạch phát triển và sử dụng năng lượng sinh khối và quy hoạch phát triển điện lực các cấp được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt.

Đối với các dự án điện sinh khối chưa có trong danh mục của quy hoạch phát triển và sử dụng năng lượng sinh khối quốc gia và quy hoạch phát triển điện lực quốc gia được duyệt, chủ đầu tư chịu trách nhiệm lập Hồ sơ đề nghị bổ sung quy hoạch, gửi Bộ Công Thương thẩm định, trình Thủ tướng xem xét, quyết định.

Trong khi Quy hoạch phát triển và sử dụng năng lượng sinh khối chưa được phê duyệt, việc đầu tư các dự án điện sinh khối cần được sự chấp thuận của Thủ tướng Chính phủ.

Cũng theo Quyết định, chủ đầu tư chỉ được phép khởi công xây dựng công trình điện sinh khối nối lưới, ngoài các điều kiện quy định tại Điều 72 Luật Xây dựng và các văn bản quy phạm pháp luật liên quan, còn phải có: Giấy chứng nhận đầu tư, văn bản chấp thuận mua điện của Bên mua điện; thỏa thuận đấu nối với Đơn vị phân phối hoặc Đơn vị truyền tải điện (đối với dự án điện sinh khối nối lưới); ý kiến về thiết kế của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về quản lý đầu tư xây dựng công trình.Quyết định cũng nêu rõ, việc đầu tư xây dựng dự án điện sinh khối phải phù hợp với Quy hoạch phát triển và sử dụng năng lượng sinh khối và quy hoạch phát triển điện lực các cấp được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt.

Đối với các dự án điện sinh khối chưa có trong danh mục của quy hoạch phát triển và sử dụng năng lượng sinh khối quốc gia và quy hoạch phát triển điện lực quốc gia được duyệt, chủ đầu tư chịu trách nhiệm lập Hồ sơ đề nghị bổ sung quy hoạch, gửi Bộ Công Thương thẩm định, trình Thủ tướng xem xét, quyết định.

Trong khi Quy hoạch phát triển và sử dụng năng lượng sinh khối chưa được phê duyệt, việc đầu tư các dự án điện sinh khối cần được sự chấp thuận của Thủ tướng Chính phủ.

Cũng theo Quyết định, chủ đầu tư chỉ được phép khởi công xây dựng công trình điện sinh khối nối lưới, ngoài các điều kiện quy định tại Điều 72 Luật Xây dựng và các văn bản quy phạm pháp luật liên quan, còn phải có: Giấy chứng nhận đầu tư, văn bản chấp thuận mua điện của Bên mua điện; thỏa thuận đấu nối với Đơn vị phân phối hoặc Đơn vị truyền tải điện (đối với dự án điện sinh khối nối lưới); ý kiến về thiết kế của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về quản lý đầu tư xây dựng công trình.

 Nguồn: thiennhien.net

Dấu ấn sự kiện “Ươm tạo Năng lực Tiếp nhận Đầu tư xã hội”

Vào ngày 13/03 vừa qua, Quỹ Ủy thác tín dụng xanh GCTF đã tham gia với tư cách là nhà cung ứng tại phiên Kết nối thị trường và hội thảo Chia sẻ kinh nghiệm với chủ đề “Ươm tạo năng lực tiếp nhận đầu tư xã hội” do Spark, Adelphi và HATCH! Program phối hợp tổ chức tại Hà Nội.

80 khách mời tham dự đến từ 30 DNXH, các doanh nghiệp kinh doanh cùng người nghèo, các cá nhân đang chuẩn bị khởi sự doanh nghiệp, đã gặp gỡ, thảo luận với các tổ chức cung cấp dịch vụ phát triển năng lực và các tổ chức ươm tạo tham gia, tìm kiếm tính phù hợp giữa các nhu cầu dịch vụ phát triển năng lực cho các doanh nghiệp phát triển, mở rộng, hoặc bắt đầu thực hiện ý tưởng kinh doanh của mình với những gì mà nhà cung cấp-ươm tạo có thể đáp ứng. “Lần đầu tiên được tham gia phiên kết nối. Các bên cung cấp rất nhiệt tình, tôi thu được nhiều thông tin và cơ hội bổ ích. Chúng tôi đã nhận được lời mời hợp tác” – 1 doanh nghiệp xã hội chia sẻ.

Tại Phiên kết nối, nhiều doanh nghiệp đã tìm được những nhà cung cấp dịch vụ tiềm năng có thể giải quyết những băn khoăn của doanh nghiệp trong nhiều lĩnh vực như tài chính, tư vấn chiến lược,  pháp lý, v.vv… Các tổ chức cung cấp dịch vụ qua đây cũng đã có cơ hội giới thiệu và quảng bá dịch vụ tài chính, tư vấn chiến lược kinh doanh, luật pháp của mình đến với nhiều đối tượng khách hàng, đặc biệt là nhóm các DNXH.

Trong khi thảo luận, các nhóm cung cấp dịch vụ cũng có cơ hội chia sẻ những quan sát của họ về thị trường và làm thế nào để thiết kế dịch vụ dành cho DNXH và làm cho dịch vụ được minh bạch hơn . “Mọi người đến trao đổi với chúng tôi rất nghiêm túc.  Tôi nhận thấy nhu cầu sử dụng dịch vụ ươm tạo từ các cá nhân và tổ  chức khởi nghiệp rất lớn” – Đại diện của Hatch! Program, anh Lê Viết Đạt chia sẻ.

Tham gia phiên kết nối thị trường, các nhà cung cấp dịch vụ như OCD, NHQuang & Cộng Sự, hiện đang hướng tới các doanh nghiệp lớn, đã có thêm ý tưởng làm thế nào để dịch vụ có chất lượng của họ có thể cung cấp cho các doanh nghiệp xã hội.  Từ mô hình kết nối thử nghiệm, các đại biểu đưa ra nhiều gợi ý để giúp phát triển thị trường dịch vụ nâng cao năng lực với vai trò kết nối của các tổ chức như Spark.

1

         Quỹ Ủy thác tín dụng xanh GCTF đón nhận nhiều sự quan tâm từ các doanh nghiệp

2

                      Hoạt động kết nối giữa các cá nhân/tổ chức cung cấp và sử dụng dịch vụ tại phiên buổi sáng

Hội thảo chia sẻ kinh nghiệm “Ươm tạo Năng lực Tiếp nhận Đầu tư xã hội” dự kiến dành riêng cho các tổ chức cung cấp và ươm tạo doanh nghiệp, thực tế đã mở rộng cho các doanh nghiệp theo yêu cầu của họ vào buổi chiều cùng ngày.

Đại diện Oxfam Novib (Hà Lan) đã trình bày các điều kiện cần có để tiếp nhận đầu tư xã hội từ chương trình kết nối đầu tư xã hội của họ, nêu rõ các doanh nghiệp và các dịch vụ cần phải làm gì để tạo điều kiện cho đầu tư.

Kinh nghiệm quốc tế của Adelphi (Đức) tăng cường năng lực cho các nhà cung cấp dịch vụ cho thấy hợp tác, đánh giá chuẩn mực chất lượng dịch vụ và cùng phối hợp đáp ứng nhu cầu khách hàng là chìa khoá để phát triển đội ngũ các nhà cung cấp dịch vụ địa phương.

Ông Cyrille Antignac, đại diện quỹ đầu tư Uberis Capital cũng nhấn mạnh vai trò quan trọng của các tổ chức ươm tạo doanh nghiệp như là một trong các điều kiện quan trọng để các nhà đầu tư xã hội đưa ra quyết định tham gia vào một thị trường cụ thể.

3

Thảo luận nhóm các cá nhân/tổ chức sử dụng dịch vụ

4

                      Ông Mikael P. Henzler, Giám đốc điều hành Adelphi trình bày tại phiên Hội thảo buổi chiều

Buổi thảo luận cũng cung cấp cho các nhóm khách mời là đơn vị cung cấp cái nhìn chân thực về sự phát triển của ngành này tại Việt Nam hiện nay và các hướng đi trong tương lai, đồng thời nêu bật những đặc thù của người sử dụng là  DNXH so với DN thông thường  các khó khăn và lợi thế khi làm việc với họ để từ đó đưa ra kế hoạch hoạt động phù hợp hơn.

Bà Vũ Thị Quỳnh Anh, Giám đốc điều hành Spark chia sẻ: “Sự kiện hôm nay thực sự là cầu nối đưa các DNXH và các nhà cung cấp dịch vụ phát triển năng lực đến gần nhau hơn và cũng là nơi các DNXH tại Việt Nam được tìm hiểu và học hỏi nâng cao khả năng đón nhận đầu tư qua kinh nghiệm của các quỹ đầu tư và các tổ chức ươm tạo. Với hy vọng sự kiện này sẽ góp phần tích cực vào sự phát triển và lớn mạnh của cộng đồng DNXH tại Việt Nam hiện nay và trong tương lai cũng như sự lớn mạnh của đội ngũ cung cấp dịch vụ ươm tạo doanh nghiệp xã hội, Spark sẽ tiếp tục phối hợp với các tổ chức và các sáng kiến phát triển khác tổ chức kết nối chia sẻ kinh nghiệm, triển khai đào tạo huấn luyện và cùng hợp tác phát triển lĩnh vực này.”

Theo Spark.com.vn

Phát triển kinh tế xanh: Cần chính sách hỗ trợ thiết thực

Áp dụng khoa học kỹ thuật cao, hạn chế ô nhiễm môi trường, sử dụng hiệu quả tài nguyên… là giải pháp quan trọng để hướng tới phát triển bền vững trên cả ba phương diện kinh tế – xã hội – môi trường. Tuy nhiên, muốn làm được việc này ngoài cơ chế chính sách của nhà nước, sự tham gia của xã hội thì doanh nghiệp (DN) phải giữ vai trò trung tâm.

Diễn đàn CEO Kinh doanh xanh (Ảnh: Báo Công Thương)

Chìa khóa để phát triển bền vững

Theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới (WB), hơn 20 năm qua, tăng trưởng kinh tế đã giúp hơn 660 triệu người thoát nghèo, nâng mức thu nhập của hàng triệu người khác nhưng tăng trưởng thường đi kèm với tổn thất về môi trường. Nguồn tài nguyên bị sử dụng lãng phí, kém hiệu quả, ô nhiễm môi trường… là những yếu tố đe dọa tính bền vững của tăng trưởng và những tiến bộ về mặt phúc lợi xã hội. Thực tế cho thấy, trên thế giới vẫn còn cả tỷ người sống trong tình trạng thiếu điện và nước sạch cùng với những tác động không nhỏ của biến đổi khí hậu.

Ông Hoàng Dương Tùng – Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Môi trường (Bộ TN&MT): Bộ Tài nguyên và Môi trường đang đề xuất đưa chỉ số môi trường trở thành một phần trong báo cáo đánh giá DN. Đề nghị nhà nước ưu đãi các DN có chỉ số môi trường tốt được vay vốn để mở rộng sản xuất – kinh doanh, thúc đẩy sử dụng công nghệ sạch.

Ở Việt Nam, sau gần 30 năm đổi mới, nền kinh tế – xã hội đã có những bước phát triển vượt bậc. Tuy nhiên, Việt Nam cũng đang phải đối mặt với nhiều khó khăn thách thức như công nghệ sản xuất lạc hậu, tiêu tốn năng lượng, ô nhiễm môi trường, tài nguyên không tái tạo đang dần cạn kiệt,khoảng cách giàu nghèo gia tăng và các vấn đề do biến đổi khí hậu gây nên như thiên tai lũ lụt, hạn hán… Thêm vào đó nhiều ngành hỗ trợ, giải quyết vấn đề môi trường, dịch vụ môi trường, công nghiệp tái chế, năng lượng tái tạo… còn chưa phát triển.

Tại diễn đàn CEO cùng với chủ đề “Kinh doanh xanh” vừa tổ chức tại Hà Nội, các chuyên gia kinh tế cho rằng, để phát triển kinh tế bền vững thì con đường duy nhất là phải tập trung cho kinh tế xanh. Theo đó, sự tăng trưởng kinh tế phải gắn với giảm phát thải carbon, giảm thiểu ô nhiễm môi trường, sử dụng hiệu quả năng lượng và tài nguyên. Đây cũng là chìa khóa để phát triển bền vững. Vì vậy, các DN cần phải thay đổi tư duy nhằm phát triển chiến lược kinh doanh xanh gắn quản trị cả tài chính, tài nguyên, con người một cách hiệu quả.

Cần lộ trình hỗ trợ cụ thể

Theo các chuyên gia, để phát triển kinh tế xanh, DN phải giữ vai trò trung tâm bởi chính họ là người quyết định đến đầu tư, lựa chọn công nghệ sản xuất, sử dụng tài nguyên và lao động. Tuy nhiên, các DN lại gặp rất nhiều khó khăn trong việc tiếp cận vốn vay ưu đãi để cải tiến công nghệ, thiếu bộ chỉ số tiêu chuẩn và cơ quan chức năng xác thực được mức độ bảo vệ môi trường, giảm thiểu ô nhiễm của DN; cũng như các vấn đề tuyên truyền nâng cao nhận thức của DN, người lao động và cộng đồng.

Bà Laura Altinger – chuyên viên cao cấp về môi trường của Ngân hàng Thế giới WorldBank – cho biết: Tại Việt Nam, tỷ lệ đầu tư trên GDP cho tăng trưởng xanh chỉ khoảng 0,2%. Do vậy, điều quan trọng nhất là nhà nước phải có các chính sách hỗ trợ với lộ trình cụ thể theo từng bước phát triển của nền kinh tế để các DN mặn mà với kinh tế xanh. Bằng việc áp dụng các công nghệ tiên tiến, DN sẽ lựa chọn sử dụng nguồn năng lượng ít hơn, hạn chế sử dụng các nguồn năng lượng không tái tạo.

Theo Đình Dũng/Báo Công Thương

 

Thách thức giảm phát thải khí CO2

Việt Nam cần khoảng 30 tỷ USD để giảm phát thải khí CO2 trong khu vực công nghiệp từ nay đến năm 2020, đây là một thách thức không nhỏ trên con đường phát triển kinh tế bền vững.

Thách thức giảm phát thải CO2

Chính doanh nghiệp là người có lợi nhiều nhất khi tham gia vào tăng trưởng xanh. Nguồn: Internet

Chiến lược phù hợp

Tăng trưởng xanh, tiến tới nền kinh tế các bon thấp, làm giàu vốn tự nhiên trở thành xu hướng chủ đạo trong phát triển kinh tế bền vững và ứng phó với suy thoái môi trường. Hiện nhiều quốc gia ở châu Á đang bắt đầu chuyển đổi nền kinh tế theo hướng bền vững hơn và Việt Nam cũng đang hướng tới.

Trong “Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh thời kỳ năm 2011 đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2050” đã được Chính phủ phê duyệt, nêu rõ: Mục tiêu từ nay tới năm 2020, Việt Nam sẽ giảm cường độ phát thải khí nhà kính 8%-10% so với mức 2010, giảm tiêu hao năng lượng tính trên GDP từ 1%-1,5%/năm. Giảm lượng phát thải khí nhà kính trong các hoạt động năng lượng từ 10-20% so với phương án phát triển bình thường. Trong đó mức tự nguyện khoảng 10%, 10% còn lại mức phấn đấu khi có thêm hỗ trợ quốc tế.

Định hướng đến năm 2030 giảm mức phát thải khí nhà kính mỗi năm ít nhất 1,5-2%, giảm lượng phát thải khí nhà kính trong các hoạt động năng lượng từ 20-30% so với phương án phát triển bình thường. Trong đó, mức tự nguyện khoảng 20%, 10% còn lại là mức khi có thêm hỗ trợ quốc tế. Định hướng đến năm 2050 giảm mức phát thải khí nhà kính mỗi năm 1,5-2%.

Cũng theo chiến lược này, Việt Nam sẽ xanh hóa sản xuất, thực hiện một chiến lược “công nghiệp hóa sạch” thông qua rà soát, điều chỉnh những quy hoạch ngành hiện có. Sử dụng tiết kiệm và hiệu quả tài nguyên, khuyến khích phát triển công nghiệp xanh, nông nghiệp xanh với cơ cấu ngành nghề, công nghệ, thiết bị bảo đảm nguyên tắc thân thiện với môi trường. Đầu tư phát triển vốn tự nhiên, tích cực ngăn ngừa và xử lý ô nhiễm…

Giải pháp tài chính

Hơn thập kỷ qua, biến đổi khí hậu hàng năm đã gây thiệt hại khoảng 2-6% GDP của Việt Nam. Mỗi năm Chính phủ Việt Nam đã dành khoảng 1 tỷ USD cho các chương trình và dự án biến đổi khí hậu, trong đó có tăng trưởng xanh thông qua các chương trình mục tiêu quốc gia, các dự án, chương trình liên quan trực tiếp đến biến đổi khí hậu và tăng trưởng xanh. Từ năm 1993 đến nay, Chính phủ Việt Nam đã dành khoảng 2 tỷ USD vốn ODA cho các dự án, chương trình liên quan đến tăng trưởng xanh. Ngoài ra, các tổ chức, các quỹ quốc tế cũng tham gia cung cấp tài chính hoặc hỗ trợ kỹ thuật, như Chương trình giảm phát thải từ phá rừng và suy thoái rừng ở các nước đang phát triển (REDD+), Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam, Cơ chế phát triển sạch (CDM)…

Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh của Việt Nam được đánh giá cao, góp phần quan trọng thực hiện Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu. Tuy nhiên, theo nhiều chuyên gia, nguồn tài chính phân bổ cho các dự án, chương trình liên quan đến tăng trưởng xanh còn rải rác, chưa tập trung, trong khi để giảm phát thải khí nhà kính 8% đến 10% so với mức 2010 như mục tiêu đề ra, từ nay đến năm 2020, Việt Nam cần 30 tỷ USD. Đây là khoản kinh phí không nhỏ đối với Việt Nam và để huy động được nguồn lực này cần tích hợp nhu cầu tăng trưởng xanh và bền vững vào khung phát triển kinh tế – xã hội 5 năm, 10 năm, và sử dụng cơ chế thích hợp để huy động vốn, nhất là từ khu vực tư nhân và các đối tác quốc tế.

Tại hội thảo “Tiếp cận tài chính cho tăng trưởng xanh và chiến lược phát triển ít phát thải” vừa diễn ra tại Hà Nội, ông Phạm Hoàng Mai, Vụ trưởng Vụ Khoa học, Giáo dục, Tài nguyên và môi trường, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho rằng, hiện những hình thức tiếp cận tài chính cho tăng trưởng xanh, ứng phó với biến đổi khí hậu ở Việt Nam đã xuất hiện để đáp ứng nhu cầu ngày càng gia tăng và đa dạng nhưng chủ yếu là từ đầu tư công của Chính phủ, nguồn vốn ODA và các tổ chức, các quỹ quốc tế mà chưa có sự tham gia mạnh mẽ của khu vực tư nhân. Do đó, trong tương lai, cần triển khai một số dự án thí điểm cho các nhà đầu tư sinh lợi, khuyến khích khu vực tư nhân tham gia tích cực hơn vào tăng trưởng xanh.

Đại diện Bộ Công Thương tại hội thảo “Tăng cường năng lực xây dựng và thực thi chính sách liên quan đến biến đổi khí hậu, tăng trưởng xanh ở Việt Nam”, đã đề xuất: Cần thiết lập và tăng cường cơ chế điều phối, phối hợp thường xuyên giữa cơ quan thường trực Ủy ban quốc gia biến đổi khí hậu và các đầu mối Ủy ban quốc gia tại các Bộ; Ban hành, thể chế hóa yêu cầu lồng ghép biến đổi khí hậu trong các quy hoạch, kế hoạch, chiến lược. Nhà nước đảm bảo kinh phí và mức độ kinh phí cho thực hiện tăng trưởng xanh, giảm phát thải khí nhà kính… để các Bộ, ngành chủ động trong ưu tiên hóa và lập kế hoạch thực hiện, đặc biệt là phân bổ kinh phí cho các hạng mục đầu tư thí điểm các mô hình và công nghệ giảm phát thải./.

Theo ven.vn